THANH LÃNG, TỪ TƯ LIỆU ĐẾN

CÁCH PHÂN KỲ VĂN HỌC

                                                                 Đỗ Lai Thúy

 

Là một nhà phê b́nh văn học, đáng lẽ tôi chỉ cần nghiên cứu tác phẩm ở bản thân nó như một thực thể chữ tự trị là đủ, nhưng vốn coi mỗi cuốn sách đều có một số phận, nên tôi luôn đặt cái thân phận chữ nghĩa ấy vào thời đại lớn và nhỏ của nó. Bởi lẽ, một số phận lớn chịu sự quy định của thời đại bao nhiêu th́ cũng tác động lại đến thời đại bấy nhiêu. V́ thế, nhà phê b́nh văn học không thể không chú ư đến lịch sử văn học. Và, rộng hơn, lịch sử chung.

Đọc Thanh Lãng tôi càng nghiệm ra điều đó là đúng. Là một giáo sư văn học, tác phẩm không nhiều, lại chỉ là giáo tŕnh: Biểu nhất làm văn học cận đại (1957), Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển Thượng và Hạ, Tŕnh bày, Sài G̣n, 1967) và Phê b́nh văn học thế hệ 1932 (quyển 1 và 2, Phong trào văn học, Sài G̣n, 1973)…, nhưng Thanh Lãng đă có một số những ư tưởng độc sáng đến nay c̣n gợi ra nhiều ngẫm nghĩ (hoặc ít ra đối với tôi).

Trước hết, tôi muốn nói đến tư tưởng tư liệu. Các nước Đông Á thường không coi trọng tư liệu. Lối học theo kiểu Đạo học là càng lên cao càng quy giản để trở về với Một, thậm chí với Không, nên tư liệu bộn bề là một cản trở. C̣n ở Việt Nam th́ lại càng không có thói quen lưu giữ tư liệu, kể cả tư liệu thành văn lẫn tư liệu kư ức. Bởi vậy, sưu tầm tư liệu, xử lư tư liệu, làm học thuật trên cơ sở tư liệu là một lề lối phương Tây, một kiểu tư duy thực chứng.

Việc sưu tầm tư liệu, đặc biệt là tư liệu báo chí, của Thanh Lãng xuất phát từ việc thương học tṛ. Đến sinh viên đại học cũng học chay. Chỉ học nguyên lư mà không đọc tác phẩm, chỉ học luận điểm mà không đọc, hoặc không có để đọc, các luận chứng. Bởi thế, dạy – học trở nên áp đặt, độc thoại. Sinh viên không có tư liệu gốc, thứ vật liệu mà từ đó thầy khái quát nên những nguyên lư, những luận điểm, c̣n tṛ th́ một mặt xác lập ư kiến của ḿnh, mặt khác hiểu sâu quan điểm của thầy, thậm chí đối thoại với quan điểm của thầy.

Tư liệu với nhà phê b́nh cũng quan trọng như vậy, thậm chí c̣n hơn. Bởi lẽ, nhà phê b́nh xây cất những luận điểm, thắp sáng những khám phá của ḿnh trên và bằng tư liệu. Từ liệu là ga đi của một hành tŕnh thám mă. Nếu có nhà phê b́nh nào đó nhắm trước một đích đến th́ khi tiếp xúc với tư liệu, nhiều khi anh ta phải điều chỉnh hành tŕnh, hoặc ga đến lại là nơi bất ngờ, ngoài dự kiến. Bởi tư liệu tuy là một dạng tiềm năng nhưng có tính ngoan cố không dễ ǵ phục tùng những thiên kiến. V́ thế, những công tŕnh tư liệu thường sống lâu hơn những công tŕnh chỉ có luận điểm chay: Mọi luận điểm sẽ qua đi nhưng tư liệu th́ c̣n lại.

Cũng nhờ tư liệu mà Thanh Lãng có cái nh́n mới với một vài giai đoạn văn học. Trước hết là “văn học Thiên chúa giáo”. Trước đây chúng ta thường nghĩ văn học Việt Nam có văn học Nho giáo (điều quá hiển nhiên), văn học Phật giáo (một số người c̣n nghi ngờ!), nhưng văn học Thiên chúa giáo th́ nhất quyết không có. Nhưng Thanh Lãng đă làm thay đổi suy nghĩ của chúng ta. Là một linh mục, một tiến sĩ văn chương Pháp, ông đă có điều kiện t́m vào kho lưu trũ của Nhà thờ và phát hiện ra cả một miền đất mới. Đó là các sách viết về các danh nhân trong Cựu ước như Thánh Tổ Gia cốp văn, Đa vít thánh vương tuồng, Tô Bi A văn…; về cuộc đời Đức Ki-tô trong Tân ước như Giáng sinh văn; về các danh nhân trong lịch sử công giáo thế giới như Cécilia tuồng, Thánh An tôn văn, Hoàng hậu Save văn, Inê tử đạo văn…; về danh nhân Việt Nam như Đông cung nhật tŕnh văn

Các tác giả – tín đồ Công giáo bấy giờ không phải chỉ có chủ trương tôn giáo thuần túy, mà c̣n có chủ chương văn học. Những tuồng, văn, thơ là những bằng chứng hùng hồn cho chủ trương làm văn, viết văn của những nhà văn tôn giáo ấy. Bởi thế, khác hẳn với nền văn chương Nho giáo của cái Đại xă hội văn hóa đương thời, nền văn chương Ki tô giáo tiểu ngạch đă khai sinh ra nhiều h́nh thức văn học mới. Đó là văn thuần túy tôn giáo gồm các kinh kệ dùng trong việc tế tự, các sách dạng giáo lư hay luân lư, sách chú giải kinh điển như Sách Thầy Giảng (1870), Sách dạy về sự kính thờ Rất Thánh Trái Tim Đức Giêsu (1891) và bộ sách Giải nghĩa kinh Evang (1903)…; loại ca vè luân lư dạy về cách ăn ở ở đời như Vè Cụ Sáu; loại lịch sử lúc đầu chỉ chép lịch sử Ki-tô giáo thế giới, sau chép cả lịch sử vh như Sử kư Đại Nam Việt; loại truyện kư hay hồi kư: do chịu ảnh hưởng của các nhà truyền giáo châu Âu, các nhà truyền giáo Việt Nam cũng viết hồi kư loại truyện kư bằng văn xuôi hoặc văn vần như Đông Cung nhật tŕnh văn viết về Hoàng tử Cảnh sang Pháp; cuối cùng là văn tuồng mới viết theo kiểu phương Tây, nhân vật là những danh nhân tôn giáo, nói chứ không hát, lời lẽ nôm na, dễ hiểu…

Tóm lại, trong lúc ngoài xă hội vẫn đang thống trị văn vần hay văn xuôi biền ngẫu chứa đầy điển tích th́ ở đây ra đời một thứ văn xuôi đơn sơ, dễ dăi gồm những lời ăn tiếng nói hàng ngày, ít chữ Hán, ít điển tích; trong lúc ngoài xă hội vẫn đang thống trị tuồng hát như tuồng chèo với tính ước lệ rất cao th́ ở đây ra đời thứ tuồng nói nôm na dễ hiểu. Đây là những đột phá để về sau cho ra đời những thể loại chủ đạo của văn học Việt Nam hiện đại hóa như văn xuôi, tiểu thuyết, kịch nói. Tuy văn học Ki tô giáo không có kiệt tác, nhưng đă đưa ra tư tưởng mới, thể loại mới, công cụ diễn đạt mới mở đầu cho nền văn học quốc ngữ đầu tiên ở Nam bộ, sau đó trên cả nước.

Cũng chính trên cơ sở tư liệu này, Thanh Lãng đă có đóng góp thứ hai, quan trọng hơn, vào việc phân kỳ lịch sử văn học. Trước tiên là sự phân chia văn học Việt Nam ra thành hai giai đoạn: Thời đại cổ điển và Thời đại mới, hoặc văn học trung đại và văn học hiện đại. Vậy đâu là mốc phân chia văn học trung đại và văn học mới. Gần đây, phần đông đều lấy mốc đầu thế kỷ. Tuy nhiên, trong khi vẫn có người, theo sát gót lịch sử chính trị, đẩy lên đến 1930, năm thành lập Đảng Cộng sản, hoặc lui xuống 1858, năm thực dân Pháp nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam, th́ Thanh Lãng chọn 1862, năm ba tỉnh miền Đông bị mất vào tay xâm lược.

Sự kiện một phần đất nước bị mất vào tay kẻ xâm lược, nhất là kẻ khác đó lại khác về văn hóa, đă gây ra một chấn động lớn trong tâm hồn người Việt Nam, đặc biệt là các nho sĩ. Từ đây, việc mất chủ quyền chính trị sẽ dẫn đến mất vai tṛ lănh đạo tinh thần, mất địa vị trong văn học. Nhất là cái học mới đang dần nảy nở và phát triển với các phương tiện trợ giúp hùng mạnh là chữ quốc ngữ, nhà in với báo chí. Năm 1865 xuất hiện tờ báo đầu tiên: Gia Định báo và năm 1866, chỉ một năm sau, Trương Vĩnh Kư đă cho in và phát hành bộ Chuyện đời xưa của ông. Thế là bắt đầu một lớp người trí thức mới, Tây học, dần dà thay thế lớp cũ, Nho học. Họ bắt tay vào xây dựng nền văn học của ḿnh. Bế mạc một mùa cổ điển và khai mạc một thời đại văn học mới.

Như vậy, chọn mốc 1862, tuy là một cột chính trị nhưng lại sản sinh ra nhiều hệ quả văn hóa quan trọng, Thanh Lãng đă mang lại một cái nh́n mới cho một giai đoạn văn học Việt Nam. Đó là một cái nh́n từ Nam bộ nhưng lại có giá trị toàn quốc, một cái nh́n từ chữ quốc ngữ, từ văn chương Ki tô giáo, tức là cái mới nảy sinh và, do đó, có phần đối lập với cái nh́n quen thuộc từ Bắc bộ, từ nền văn chương Nho giáo, tức từ sự suy tàn của cái cũ. Nhưng, điều quan trọng hơn, là từ sự chọn mốc này, Thanh Lãng đă chia giai đoạn khởi đầu 1862-1945 của nền văn học mới, hiện đại thành ba thế hệ và từ đó gợi ra những suy nghĩ về việc phân chia lịch sử văn học theo thế hệ.

Thực ra, văn học Thời đại cổ điển từ thế kỷ XVII đến năm 1862 cũng được Thanh Lãng chia làm 7 giai đoạn, tức 7 thế hệ: 1. Văn học thời đối kháng Trung hoa (thế kỷ XIII-XIV), 2. Văn học thời phát huy văn hóa dân tộc (1428-1505), 3. Văn học thời chớm mở đối kháng thời thế (1505-1592), 4. Văn học thời kỳ gặp gỡ phương Tây (1592-1729), 5. Văn học thời thác loạn (1729-1788), 6. Văn học thế hệ Nguyễn Du (1788-1820), 7. Văn học thế hệ Nguyễn Công Trứ (1820-1892). Cách phân chia trên, quả thực chưa chặt chẽ bởi một tiêu chí thống nhất. Điều này, trước hết phản ánh ở tên gọi: khi th́ lấy tinh thần chủ đạo của một giai đoạn như “Văn học thời thác loạn”, khi th́ lấy một nhân vật tiêu biểu như “Văn học thế hệ Nguyễn Du”… Nhược điểm này được khắc phục một cách triệt để trong sự phân kỳ văn học Thời đại mới từ năm 1862 đến 1945.

Thời đại này được Thanh Lãng chia làm 3 thế hệ: 1. Thế hệ Đối kháng kéo dài từ 1862 đến 1913, tư tưởng chủ đạo là chống Pháp, chống văn hóa phương Tây qua thơ văn của các sĩ phu yêu nước, Cần vương, phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục; 2. Thế hệ Liên hiệp kéo dài từ 1919 đến 1932. Năm 1913 hầu như các cuộc đấu tranh chống Pháp đều tan ră: Phan Bội Châu chủ trương Pháp Việt đề huề, khởi nghĩa Yên Thế thất bại, Nguyễn Văn Vĩnh mở Đông Dương tạp chí cổ động cho đường lối tổng hợp Đông Tây, dung ḥa Âu Á, mới cũ, già trẻ, luân lư/nghệ thuật; 3. Thế hệ Đoạn tuyệt kéo dài từ 1932 đến 1945. Nếu các thế hệ trên hoặc là Nho học, hoặc là Nhà nho Tây học, th́ thế hệ này toàn phần Tây học, nên họ muốn đoạn tuyệt với phương Đông để theo Tây phương, đoạn tuyệt với cái cũ để theo cái mới, đoạn tuyệt với luân lư để giải phóng nghệ thuật.

Cách phân chia này tôi thấy rất nhiều ư nghĩa. Trước hết là việc chia lịch sử văn học Việt Nam thành 2 thời đại: Thời đại Cổ điển và Thời đại mới. Chữ thời đại ở đây là thời đại lớn theo cách dùng của nhà nhân văn học M.Bakhtin và nhà lịch sử tôn giáo M.Eliade. Thời đại lớn chính là thời đại văn hóa. Tư tưởng chủ đạo của Thời đại cổ điển là Trung Hoa hóa, tức khu vực hóa, c̣n của Thời đại mới là phương Tây hóa, tức thế giới hóa. Như vậy, xu thế hiện đại hóa ở văn học Việt Nam là không thể đảo ngược, đặc biệt là ở văn học thời đại mới.

Khi xác định tư tưởng văn học chủ đạo của Thời đại mới là phương Tây hóa, tôi muốn mở ngoặc nói thêm, ở thời kỳ này hiện đại hóa gần như trùng khít với phương Tây hóa, và phương Tây hóa cũng gần như trùng khít với thế giới hóa, chỉ sau 1945 th́ hiện đại hóa mới đa phương hơn và, do đó, đa dạng hơn. Trên diễn tŕnh hiện đại hóa này mỗi thế hệ gánh vác một phần nhiệm vụ của ḿnh. Từ đó, không chỉ nh́n văn học theo tư tưởng chủ đạo, tức cái cốt yếu nhất, mà c̣n nh́n nó trong thế vận động. Như vậy, các thế hệ văn học của Thời đại mới từ chống đối, bất hợp tác với tư tưởng văn học phương Tây dần dà đi đến chỗ dung ḥa tư tưởng Đông Tây, để rồi đoạn tuyệt với tư tưởng phương Đông nhằm chủ trương hiện đại hóa theo con đường phương Tây.

Theo sơ đồ này, Thanh Lãng đă chỉ ra con đường hiện đại hóa, tức phương Tây hóa, của văn học Việt Nam được các thế hệ kế tiếp nhau trong một cuộc chạy đua tiếp sức là không thể đạo ngược. Nhưng việc hiện đại hóa gần như trùng khít với phương Tây hóa, tức Pháp hóa, tức ít nhiều có dính dáng đến chính quyền Pháp cả ở chính quốc lẫn ở thuộc địa, đă ngầm chứa sẵn các số phận bi kịch cho những người có tư tưởng canh tân, cải cách.

Tuy nhiên, theo tôi, hợp lư hơn có lẽ nên chia giai đoạn 1932 – 1945 thành hai: 1932 – 1939 và 1940 – 1945. Thế hệ Đoạn tuyệt với Tự lực Văn đoàn là tiêu biểu kết thúc vào năm 1939, khi Thế chiến hai bùng nổ. Người ta mất niềm tin vào nền văn minh phương Tây, nên đă quay sang phương Đông, quay về dân tộc. Phong trào nghiên cứu văn hóa dân tộc h́nh thành quanh tạp chí Tri tân. Một thế hệ trí thức mới ra đời tiếp thu tinh thần khoa học phương Tây để xử lư những vấn đề văn hóa xă hội Việt Nam nhằm t́m ra một con đường hiện đại hóa khác trước, trong đó có con đường mác – xít vừa giải quyết được vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế. Thế hệ trí thức này tập hợp xung quanh tạp chí Thanh nghị và nhà xuất bản Hàn Thuyên. Điều này giải thích v́ sao chính họ là những người nhiệt t́nh tham gia Cách mạng tháng Tám.

Việc phân kỳ lịch sử theo thế hệ là nh́n vào những con người chính yếu, chiếm số đông, mang tư tưởng chủ đạo của giai đoạn ấy. Ví như Thế hệ Phản kháng chủ yếu là các nhà nho, Thế hệ Liên hiệp chủ yếu là các nhà nho Tây học, c̣n Thế hệ Đoạn tuyệt chủ yếu là các nhà Tây học. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn đều có những con người lạc thế hệ ḿnh: hoặc họ thuộc thế hệ sau đó, hoặc họ thuộc về thế hệ trước đó. Ở thế hệ Phản kháng chẳng hạn, có những người như Trương Vĩnh Kư, Huỳnh Tinh Của… lại chủ trương liên hiệp. Sự đi ngược lại thế hệ của ḿnh đă mang lại cho họ nhiều ngộ nhận, hiểu lầm. Điều này cũng dễ giải thích v́ họ thuộc nhà nho Tây học sẽ chỉ trở thành chủ đạo ở giai đoạn sau. Đáng chú ư là trường hợp Tôn Thọ Tường, vốn là nhà nho nhưng lại chủ trương liên hiệp nên ông rơi vào một mâu thuẫn mang tính bi kịch: “một bên là thực tế của lương tri đ̣i hỏi nhà nho phải trung quân ái quốc, một bên là thực tế cuộc đời, bế bắc, tàn ác, bi đát nhưng phải thích nghi”. Bởi thế, Tôn Thọ Tường (cả văn lẫn đời) đều là những cái nửa chừng: suy tưởng nửa chừng, hành động nửa chừng. Hoặc ở Thế hệ Liên hiệp cũng có những người bước một chân sang Thế hệ Đoạn tuyệt. Đó là trường hợp Nguyễn Văn Vĩnh. Không phải ngẫu nhiên mà những nhà văn sáng tác quốc ngữ ở Thế hệ Đoạn tuyệt đều thừa nhận ḿnh được đào tạo từ trường học của Tân Nam Tử (con người của nước Nam mới).

Sự phân kỳ văn học theo thế hệ không chỉ đến Thanh Lãng mới có. Thực ra trong Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan đă có chia các văn theo thế hệ. Nhưng ông làm không triệt để và quan trọng hơn không có biện luận cũng như không có lư thuyết. C̣n trong phê b́nh văn học Việt Nam sau này, người ta cũng hay nói đến thế hệ chống Pháp, thế hệ chống Mỹ nhưng thực ra không có nội dung tư tưởng. Hoặc, sự phân biệt các thế hệ nhà văn 70, 60, 50 tuổi cũng không có nội dung, chỉ để thuận tiện cho Hội nhà văn lên danh sách thăm hỏi, tặng quà. Nói vậy, là để biết đóng góp của Thanh Lãng với phương pháp phân kỳ văn học theo thế hệ của ông vào văn học sử và phê b́nh văn học.

                                                                               Đ.L.T